(Tài chính) Các điểm yếu của hệ thống giám sát khiến thị trường tài chính thế giới nói chung và thị trường tài chính Việt Nam nói riêng phải đối mặt với những rủi ro đáng ngại trong thời gian qua. TS. Hà Huy Tuấn, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia (NFSC) cho rằng cần nâng cao năng lực giám sát tài chính vĩ mô để hạn chế các rủi ro của hệ thống này.
TS. Hà Huy Tuấn, Phó Chủ tịch NFSC
TS. Hà Huy Tuấn: Nhìn vào diễn biến trên thị trường tài chính Việt Nam, có thể thấy rằng, sau hơn hai thập kỷ cải cách tuy đã có nhiều tiến bộ đáng ghi nhận nhưng vẫn tồn tại nhiều rủi ro, đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, là tiềm ẩn các rủi ro chéo giữa khu vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và các rủi ro mang tính hệ thống từ sự bất ổn của môi trường kinh tế vĩ mô cũng như từ các cú sốc bên ngoài.
Trên thực tế, hệ thống giám sát tài chính chỉ chủ yếu tập trung vào công tác giám sát an toàn vi mô trên cơ sở thiên về giám sát tuân thủ hơn là giám sát dựa trên rủi ro. Trong khi đó, thị trường tài chính đang phát triển nhanh chóng, phức tạp cả về quy mô lẫn cấu trúc, với các hoạt động tài chính đan xen giữa các khu vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và trong môi trường kinh tế vĩ mô nhiều biến động.
Việc thanh tra, giám sát thị trường tài chính được thực hiện theo phương thức các cơ quan quản lý đưa ra quy định gì thì yêu cầu các định chế thực hiện đúng như vậy. Điều này có thể gây ra rủi ro từ nhiều khía cạnh. Trong số đó, không loại trừ bản thân chính sách mà các định chế tài chính phải tuân theo chưa chắc đã tạo ảnh hưởng tích cực. Quy định của chúng ta có khi quá ngặt nghèo hoặc quá lỏng lẻo, việc chấp hành có thể khiến tình hình tài chính xấu hơn. Thậm chí, những rủi ro khác có thể xuất phát ngay từ nội tại các tổ chức, định chế tài chính hay từ nền kinh tế. Những điều này hiện vẫn chưa được xem xét trong cách quản lý, giám sát tài chính.
Theo ông, giám sát an toàn vĩ mô có tác dụng như thế nào đối với hệ thống giám sát tài chính Việt Nam hiện nay ?
Thực trạng phát triển khu vực tài chính tại Việt Nam trong thời gian qua cho thấy, trước khủng hoảng 2008, việc giám sát an toàn vĩ mô chưa thực sự được chú trọng thể hiện qua việc một loạt các vấn đề liên quan đến giám sát an toàn vĩ mô chưa được qui định rõ tại các văn bản của Nhà nước. Đó là sự thiếu vắng các nội dung như: Mục tiêu, khuôn khổ, công cụ của chính sách an toàn vĩ mô, trách nhiệm và cơ chế phối hợp trong việc thực hiện chính sách an toàn vĩ mô của các cơ quan trong mạng lưới an toàn tài chính (Ngân hàng nhà nước, Bộ tài chính, Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Bảo hiểm tiền gửi).
Trước đây, Ngân hàng nhà nước cũng đã xây dựng báo cáo giám sát vĩ mô. Báo cáo này được xây dựng hàng quý, mô tả những biến động lớn và những xu hướng cơ bản của hệ thống ngân hàng, phân tích mối quan hệ của những biến động và xu hướng với những biến động kinh tế, thay đổi môi trường cạnh tranh và những thay đổi pháp lý hoặc các qui định.
Đồng thời, báo cáo đưa ra các khuyến nghị về kinh tế, môi trường cạnh tranh hay pháp lý nhằm thúc đẩy những xu hướng phát triển tốt và hạn chế những xu hướng phát triển xấu. Tuy nhiên báo cáo này cũng chưa thể coi là một báo cáo giám sát an toàn vĩ mô theo thông lệ quốc vì báo cáo được xây dựng trên cơ sở phân tích một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và việc kiểm tra sức chịu đựng của hệ thống chưa được tiến hành để đưa vào báo cáo.
Chúng ta cần nhận thức rõ giám sát an toàn vĩ mô chính là sự bổ sung cần thiết cho cơ chế giám sát tài chính hiện nay. Giám sát tài chính vĩ mô sẽ đưa đến cho các cơ quan giám sát tài chính một cách giải quyết mới để tiếp cận vấn đề ổn định tài chính, với 3 bước: nhận diện khủng hoảng tài chính, ngăn ngừa rủi ro hệ thống và ứng phó kịp thời với khủng hoảng.
Giám sát an toàn vĩ mô tập trung theo dõi khủng hoảng tài chính phát sinh như thế nào từ các rủi ro thông thường, các yếu tố rủi ro kinh tế vĩ mô và các tác động lẫn nhau giữa khu vực tài chính và khu vực kinh tế thực. Để cho việc giám sát an toàn vĩ mô có hiệu quả, việc giám sát chặt chẽ các diễn biến của nền kinh tế trong nước và quốc tế cũng như các diễn biến thị trường tài chính trong nước và quốc tế là vô cùng cần thiết.
Như vậy, sự phân chia nhiệm vụ giữa giám sát an toàn vĩ mô và an toàn vi mô được thực hiện thế nào, thưa ông?
Bên cạnh việc phân chia trách nhiệm giữa chính sách tiền tệ (ổn định giá cả) và chính sách an toàn vi mô (các chế định tài chính phải được lành mạnh), cần phải có cái nhìn toàn diện về hệ thống tài chính, với mục tiêu và nhiệm vụ là đảm bảo sự ổn định và phân bổ nguồn vốn hợp lý của hệ thống tài chính.
Các vấn đề cần quan tâm trong giám sát an toàn vĩ mô là ngăn ngừa sự hình thành rủi ro hệ thống bằng việc quản lý tín dụng và các chu kỳ giá cả tài sản, đồng thời tăng cường sức chịu đựng của hệ thống tài chính trước các cú sốc mang tính hệ thống.
Theo ông, để nâng cao năng lực giám sát an toàn vĩ mô, cần thực hiện những việc gì?
Trước mắt, để góp phần nâng cao năng lực giám sát an toàn vĩ mô, cần chú trọng thực hiện tốt một số công việc sau:
Thứ nhất, kỷ luật thị trường phải được tôn trọng trước tiên nhằm giảm tối đa các chi phí quản lý không cần thiết của việc giám sát an toàn vĩ mô.
Thứ hai, cần phải chuẩn bị tốt kiến thức và hiểu biết sâu về các điều kiện kinh tế và thị trường tài chính cho cán bộ của các cơ quan giám sát an toàn vĩ mô.
Thứ ba, việc hợp tác xuyên biên giới với các cơ quan giám sát nước ngoài trong việc giám sát an toàn vĩ mô nên được thiết lập chính thức và tăng cường mạnh mẽ trong tương lai.
Về trung và dài hạn, chúng ta cần phải đánh giá toàn diện thực trạng và khả năng triển khai hoạt động giám sát an toàn vĩ mô tại Việt Nam, trên cơ sở đó xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động này cũng như xây dựng một cơ chế điều phối thực sự có hiệu quả giữa các cơ quan trong mạng lưới an toàn tài chính (bao gồm Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia và Cơ quan bảo hiểm Tiền gửi) cho phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Theo Tạp chí Nghiên cứu khoa học kiểm toán số 71